Chuyển đến nội dung chính

Hiện đại hóa hệ thống điều chỉnh tuabin hơi

Rất nhiều đơn vị hiện đang tiến hành hiện đại hóa hệ thống điều chỉnh các tuabin hơi (TH), trong đó có cả các TH của Nhà máy Cơ khí Leningrađ. Mục tiêu của việc hiện đại hóa là khắc phục các khiếm khuyết trong hoạt động của các bộ phận và nâng cao tính kinh tế của TH bằng việc sử dụng các van điều chỉnh mới với các van và mặt tựa van có prôfin (biên dạng) kinh tế hơn, các cột thép trong TH có trục cam, áp dụng các phương pháp làm kín bằng kim loại lỏng, v.v., kể cả việc đáp ứng các yêu cầu tăng cao đối với chất lượng điều chỉnh sơ cấp TH, thực hiện bằng cách áp dụng rộng rãi hơn các hệ thống điện - thủy lực, gia tăng tỉ lệ điện tử.

Tuabin hơi công suất 220 MW
Một số vấn đề nảy sinh khi lựa chọn phương hướng và khối lượng hiện đại hóa. Đối với những khía cạnh đó, cần cân nhắc đến số lượng lớn TH đang và sẽ được xử lý, và đây cũng là những vấn đề cấp thiết trong khâu thiết kế TH mới.
Phần điện tử của các hệ thống điều chỉnh có thể được thực hiện trên cơ sở phần tử khác, tùy thuộc vào yêu cầu kỹ thuật và khả năng vật chất của khách hàng, nhưng giải pháp sơ đồ tương đối giống nhau. Kinh nghiệm cần thiết trong việc thực thi các giải pháp đó, trong đó kể cả việc chọn các thuật toán, đã tích lũy được kể cả trong hệ thống điều chỉnh tốc độ quay và công suất, cũng như trong việc sử dụng các thiết bị bảo vệ chống vượt tốc. Cũng có nhiều kinh nghiệm áp dụng các bộ biến đổi điện - thủy lực (BĐĐTL) thuộc các thành tựu mới nhất, thí dụ các cơ cấu chấp hành kiểu động cơ tuyến tính Exlar.
Phần cơ của hệ thống điều chỉnh được hiện đại hóa không phải bao giờ cũng là cơ bản và kinh nghiệm tích lũy được trong hoạt động của các bộ phận không phải bao giờ cũng được áp dụng triệt để. Cụ thể như việc hiện đại hóa TH kiểu K-200-100 bằng việc lắp đặt bộ biến đổi điện - cơ cho bộ truyền động trực tiếp của servomotor kiểu ngăn kéo thuộc các van điều chỉnh của xilanh cao áp - xilanh trung áp (hoặc chỉ xilanh cao áp trong các TH kiểu PT-80). Độ nhậy của hệ thống điều chỉnh có thể đã được cải thiện ít nhiều, nhưng tất cả các vấn đề cũ vẫn tồn tại, đã vậy lại còn vấn đề kiểm soát độ di trục của bơm dầu chính mà hậu quả sự cố của nó là đáng kể.
Ngoài ra với việc thay thế trên, vẫn còn một phần tử đáng nghi ngờ trong hệ thống phân phối hơi, đó là các cam (vấu) của bộ phân phối hơi. Vì không thể tính toán, chế tạo các cam này với đủ độ chính xác nên khó duy trì chúng ở trạng thái không đổi, điều chỉnh, và quan trọng hơn hết, rất khó hiệu chỉnh tại chỗ theo kết quả thử nghiệm. Phản ứng của TH khi thay đổi tần số lưới điện được xác định không chỉ bởi độ không nhậy của hệ thống điều chỉnh, mà còn bởi đặc tuyến “công suất - hành trình servomotor”. Nếu trong TH K-300-240 mà chỉ thay thế bộ điều chỉnh tốc độ kiểu cơ khí sang điện tử nhưng vẫn giữ nguyên bộ biến đổi điện - thủy lực chung thì cho dù các đặc tính của bộ biến đổi điện - cơ khí có hoàn thiện đi chăng nữa, vẫn không thể đạt hiệu quả cần thiết cho việc tuyến tính hóa đặc tính tĩnh “tần số quay - công suất”. Vì vậy đòi hỏi phải đặt bộ biến đổi điện - cơ khí riêng rẽ cho từng servomotor. Và đó mới thực sự là giải pháp đúng đắn hơn cả, bởi vì các servomotor điện - thủy lực riêng biệt với các cam điện tử sẽ đơn giản hóa việc giải quyết những vấn đề này.
Nhưng ở đây có thể có hai phương hướng thiết kế các servomotor điện - thủy lực.
Phương án thứ nhất: Bộ biến đổi điện - cơ khí liên hệ về mặt cơ khí với ngăn kéo (van trượt) cắt của servomotor bị động. Phương án thứ hai: Bộ biến đổi điện - cơ khí là bộ phận hợp thành của bộ biến đổi điện - thủy lực - tổng hợp (BĐĐTL-TH), tác động lên ngăn kéo cắt của servomotor bằng thủy lực. Cả hai phương án có thể được thực hiện với các đặc tuyến động lực khác nhau của bộ biến đổi điện - cơ khí. Ứng lực hoán vị càng lớn của bộ biến đổi điện - cơ khí có thể chỉ trong từng trường hợp đơn giản hóa đáng kể kết cấu của nó. Đồng thời cả hai phương án đó đều mặc định việc ứng dụng bộ cảm biến vị trí của servomotor làm mạch liên hệ ngược (mạch phản hồi).
Ngày nay ở các TH 300 và 800 MW đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm khả quan về hiện đại hóa và trên 5 năm vận hành các servomotor điện - thủy lực với việc ứng dụng bộ biến đổi điện - cơ (kiểu các bộ truyền động tuyến tính) trực tiếp nối với servomotor kiểu ngăn kéo do các hãng Interautomatics và Compressor Controls Corporation thực hiện trên các hệ thống với bộ biến đổi điện - cơ khí. Nhìn chung cũng có nhiều kinh nghiệm tốt trong vận hành các hệ thống điện - thủy lực của Nhà máy Cơ khí Leningrađ với việc ứng dụng bộ BĐĐTL-TH (trên 25 hệ thống, hơn 90 bộ BĐĐTL-TH) trong cả việc hiện đại hóa các hệ thống cũng như trong việc ứng dụng trên các TH khác nhau thuộc thế hệ mới, nghĩa là cả hai phương án đến nay đã chứng tỏ khả năng hoạt động tốt. Vậy tiếp đến cần phải làm gì?
Tiếp theo vấn đề đó được nghiên cứu từ quan điểm về điều kiện hoạt động của các bộ phận trong hệ thống điều chỉnh TH, và kể cả sự phát triển khả dĩ của các kết cấu hệ thống điều chỉnh và bản thân các TH và khi cân nhắc đến các tình huống đó, có thể phương án 2 được ưa chuộng hơn. Việc nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở các hệ thống điều chỉnh mới được chế tạo trong những năm gần đây cho các TH của Nhà máy Cơ khí Leningrađ.
Việc nghiên cứu triển khai bộ biến đổi điện - thủy lực - tổng hợp (BĐĐTL-TH) không có mối liên hệ cơ khí của bộ biến đổi điện - cơ khí với ngăn kéo cắt của servomotor (ví dụ sử dụng bằng sáng chế số 2154201 của LB Nga, theo đó tín hiệu từ bộ biến đổi điện - cơ khí và áp suất dầu từ đường bảo vệ tuabin được biến đổi thành áp suất thay đổi điều khiển ngắn kéo của servomotor) khi có mạch liên hệ ngược điện tử theo vị trí của servomotor cho phép thực hiện servomotor điều chỉnh, servomotor này có thể được bố trí không chỉ thẳng đứng, mà cả nằm ngang, và nói chung với bất kỳ độ dốc nào.
Việc sử dụng servomotor đó cho van stop đã cho phép Nhà máy Cơ khí Leningrađ thực hiện đối với TH thế hệ mới (T-150, K-110, v.v.) các khối phân phối hơi với van stop nằm ngang và một hoặc hai van điều chỉnh đặt đứng. Điều đó đơn giản hóa đáng kể bản thân các khối phân phối hơi và việc xếp đặt tuabin. Servomotor của van điều chỉnh trong các khối đó trước đây được thực hiện với liên hệ ngược cơ khí kiểu cam cho ngăn kéo cắt vì vào thời đó chưa có kinh nghiệm hoạt động với các servomotor “cam” điện tử, chưa có các dữ liệu về độ tin cậy của các bộ cảm biến vị trí của các servomotor và không có kinh nghiệm vận hành dài lâu các van điều chỉnh chống rung kiểu mới.
Hiện nay, khi tất cả những vấn đề đó đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, hoàn toàn hợp lý để tiếp tục phát huy bước sau: sử dụng các servomotor tương tự, nhưng với liên hệ ngược điện tử cho các van điều chỉnh, các van này cũng có thể bố trí nằm ngang hoặc nghiêng một góc bất kỳ. Những khối đó (thí dụ từ một van điều chỉnh về van stop) sẽ cho phép giảm đáng kể tổn thất áp suất trong toàn bộ hệ thống phân phối hơi, đặt các van gần xilanh hơn, đơn giản hóa phương pháp sấy các đường ống hơi khi khởi động tuabin và thao tác các van trong quá trình vận hành. Khả năng sắp xếp các khối van đó sẽ cho phép hiện đại hóa triệt để các hệ thống phân phối hơi của các TH K-300-240, K-800-240, v.v., trong đó chiều dài của các ống giữa các van thuộc xilanh cao áp và xilanh là đáng kể (hằng số thời gian của thể tích hơi khoảng 0,2 - 0,3 s khi sử dụng các khối van và tới 0,6 s khi các van stop được đặt riêng rẽ).
Chúng tôi cho rằng khả năng giảm các thể tích hơi đó, đặc biệt đối với các tuabin có hằng số thời gian của roto 5 - 7 s, sẽ là cấp thiết ngay cả trong tương lai và giải pháp đó là có triển vọng trong thiết kế.
Xung quanh servomotor đôi khi tạo ra chế độ bất thường về nhiệt độ và độ ẩm, dẫn đến tình trạng thiết bị điện và đặc biệt thiết bị điện tử ngừng hoạt động. Đôi khi nhân viên vận hành không thể đến gần thân cao áp của tuabin hơi do xì hơi trục van stop, xì hơi ở bộ chèn hơi. Lưu lượng dầu trong các servomotor khá lớn và mặc dầu có thể vận hành tạm thời ở các chế độ bất thường đó, nhưng dầu nhanh chóng bị hỏng.
Để nâng cao độ tin cậy vận hành khi đặt bộ BĐĐC trực tiếp lên ngăn kéo của servomotor nhất thiết phải đưa vào sơ đồ điều chỉnh các tín hiệu phản hồi (liên hệ ngược) từ các bộ cảm biến vị trí các servomotor của các van điều chỉnh (đôi khi của chính ngăn kéo) trong khi đó các chỉ số của các bộ cảm biến trở nên tới hạn xét trên quan điểm về độ tin cậy của bộ điều chỉnh.
Những điều kiện hoạt động của các bộ cảm biến đó có thể không thuận lợi không chỉ vì các chế độ nhiệt độ mà còn vì cả sự phát sinh rung của các van hoặc độ rung tăng cao của chính tuabin khi đi qua điểm tới hạn hoặc khi phát sinh độ rung tần số thấp.
Đối với các tuabin công suất lớn có nhiều servomotor của các van điều chỉnh, điều đó dẫn tới phức tạp hóa đáng kể sơ đồ điều chỉnh, làm tăng giá thành phần thiết bị và có thể chiếm hết công suất tính toán của bộ xử lý trung tâm. Ngoài ra xét về các điều kiện không thuận lợi trong sự hoạt động của các bộ cảm biến, ngay cả việc lắp dự phòng (tăng độ dư thừa lên gấp đôi) cũng có thể không nâng cao được độ tin cậy như mong muốn. Đương nhiên điều đó có thể không phải là trở ngại không vượt qua được.
Mặt khác, kinh nghiệm hiệu chỉnh cho thấy trong sơ đồ với bộ BĐĐTL-TH và servomotor có phản hồi cơ khí lên ngăn kéo của nó, việc sử dụng bộ cảm biến vị trí có thể chỉ giới hạn trong các nhiệm vụ về thông tin và hiệu chỉnh, nghĩa là không đưa tín hiệu của nó vào mạch điều chỉnh hoặc có đưa vào nhưng với chức năng hiệu chỉnh hạn chế.
Để thực thi đặc tuyến mở van cần thiết một cách tương đối chính xác, có thể sử dụng sơ đồ bộ chỉ vị trí đã được nghiên cứu triển khai trong quá trình tối ưu hóa thu nhận các đặc tuyến cho trước của servomotor, bao gồm sự liên kết của hai hàm số tuyến tính từng đoạn nối tiếp nhau, một hàm số trong đó là đặc tuyến tính toán, tức là sự phụ thuộc cần thiết của hành trình van vào tín hiệu điều khiển hệ thống điều chỉnh (dòng điều khiển từ hệ thống điều chỉnh - hành trình của servomotor), còn hàm số thứ hai là đặc tuyến thực nghịch đảo cũng của van đó (hành trình của servomotor - dòng điều khiển được đưa tới bộ biến đội điện - cơ khí).
Kết quả là tín hiệu đã hiệu chỉnh được đưa tới bộ BĐĐTL-TH để thu được đặc tuyến cho trước của van, có tính đến các sai lệch hiện hữu trong các đặc tuyến thực tế của các cụm. Trong sơ đồ trên, bộ cảm biến vị trí chỉ được sử dụng để hiệu chỉnh hệ thống, và sau đó tín hiệu của nó có thể loại bỏ khỏi mạch điều chỉnh. Trong trường hợp cần thiết, bộ cảm biến vị trí có thể được để lại trong vận hành liên tục để hiệu chỉnh những sai số nhỏ (về nhiệt độ, v.v.).
Những độ lệch nhỏ có thể bù bằng thành phần tích phân của hệ điều chỉnh chính (tần số quay, công suất, áp suất). Sơ đồ này đã được Nhà máy Cơ khí Leningrađ thử nghiệm khi hiện đại hóa các TH K-200-130 tại các Nhà máy nhiệt điện Maritsavostok-3 và Mariiska và đã cho thấy kết quả tốt. Ưu việt chính của sơ đồ là loại bỏ tất cả các bộ cảm biến vị trí của các servomotor không dẫn tới sự cần thiết của việc ngừng tổ máy, điều đó là ưu việt quan trọng nhất xét về quan điểm độ tin cậy của sơ đồ với bộ BĐĐTL-TH.
Một ưu việt nữa (đôi khi khá quan trọng) của sơ đồ đối với bộ BĐĐTL-TH là khả năng điều khiển hai (hoặc một số) servomotor chỉ nhờ một bộ BĐĐTL. Khả năng đó xuất hiện khi áp dụng việc phân phối hơi của các miệng phun trong trường hợp khi điểm bắt đầu mở một trong các van điều chỉnh nằm sau điểm mở hoàn toàn van điều chỉnh khác. Sơ đồ chỉ vị trí của các van trong phương pháp điều khiển đó phức tạp hơn đôi chút, nhưng vẫn duy trì được tất cả những ưu việt kể trên. Đối với một số TH, thí dụ K-300-240 của LMZ với 7 van điều chỉnh cao áp, việc áp dụng giải pháp trên có thể tiết kiệm được đáng kể.

Tuabin hơi K-800-240
Khi sử dụng bộ truyền động Exlar làm bộ biến đổi điện - cơ cho sơ đồ điều chỉnh tuabin hơi, cần phải duy trì độ tin cậy vận hành cho việc đóng van khi mất nguồn cung cấp hoặc các tình huống tương tự của toàn bộ mạch điều chỉnh tốc độ như một tầng bảo vệ đầu tiên chống lồng tốc tuabin. Các bộ truyền động loại GS được trang bị các động cơ lực, với bộ khuếch đại không có chổi than và vận hành giống như các servomotor không có chổi than. Bộ khuếch đại servo được sử dụng để quay motor, đồng thời đảm bảo khống chế tốc độ và mômen xoắn cũng như để khống chế số vòng quay và thời gian quay. Chuyển động quay biến thành chuyển động tuyến tính nhờ cơ cấu trục vít bánh răng hành tinh được lồng ghép vào bộ truyền động tuyến tính GS.
Phần tử “tinh vi” nhất trong bộ BĐĐTL-TH đòi hỏi lắp ráp kỹ lưỡng và hiệu chỉnh tốt là bộ biến đổi điện – cơ khí. Nếu sử dụng bộ truyền động tuyến tính (kiểu Exlar) để làm bộ biến đổi điện – cơ khí cho bộ BĐĐTL-TH, có thể không cần sử dụng hệ thống theo dõi trong bộ BĐĐTL-TH và sự di chuyển ngăn kéo của bộ BĐĐTL bằng chính bộ truyền động công suất nhỏ kiểu GS20-0302 với ứng lực tuyến tính cực đại khoảng 90 kg và hành trình toàn phần 5 mm. Khối lượng của bộ truyền động này khoảng 2,5 kg, cao gần 200 mm.
Nếu lợi dụng khả năng rộng lớn của các bộ điều chỉnh vi xử lý điện tử thì về nguyên tắc, servomotor của các van điều chỉnh và van stop thuộc bất cứ kiểu gì đều có thể thực hiện với phản hồi cơ khí tuyến tính (bằng cách đó đơn giản hóa và chuẩn hóa được kết cấu), còn đặc tuyến mở cần thiết thực hiện bằng các hàm số tuyến tính từng đoạn nêu trên. Triển vọng giải pháp sơ đồ đó sẽ cho phép hiệu chỉnh đặc tuyến mở các van điều chỉnh trong chế độ tự động, điều đó giảm thiểu đáng kể chi phí nhân lực cho việc bảo dưỡng hệ thống điều chỉnh.
Kết luận
1. Sử dụng van điều chỉnh với servomotor điện - thủy lực riêng lẻ cho phép đảm bảo chính xác hơn độ tuyến tính cho đặc tuyến tĩnh của hệ thống điều chỉnh tuabin hơi.
2. Sử dụng servomotor điện - thủy lực với bộ biến đổi điện - cơ, về cơ khí không liên hệ với ngăn kéo ngắt của servomotor điều khiển nó, cho phép tạo ra các khối phân phối hơi có mức tổn thất áp suất hơi thấp nhất và có nhiều điều kiện bố trí tốt nhất.
3. Sử dụng các bộ chỉ vị trí với việc ứng dụng tính liên tục của các hàm số tuyến tính từng đoạn đảm bảo sự hoạt động tin cậy và chất lượng cao của hệ thống điều chỉnh ngay cả khi các bộ cảm biến vị trí của các servomotor không hoạt động, các bộ cảm biến này có thể chỉ được sử dụng cho các mục tiêu phụ trợ. Đồng thời servomotor thủy lực có thể được thực hiện với phản hồi tuyến tính cho ngăn kéo ngắt của nó, điều đó làm đơn giản kết cấu của chính servomotor.


Theo: KHCN Điện số 5/200 




WWW.BAODUONGCOKHI.COM

Related Posts by Categories



Nhận xét

Bài đăng xem nhiều

Dung sai và các chế độ lắp ghép bề mặt trụ trơn [pdf]

Viết bài: Thanh Sơn, bản quyền thuộc về www.baoduongcokhi.com Ví dụ bạn cần gia công 1 trục bơm ly tâm 1 cấp, khi lên bản vẽ gia công thì cần dung sai gia công, việc chọn dung sai gia công thì căn cứ vào kiểu lắp ghép như vị trí lắp vòng bi: đối với vòng trong vòng bi với trục bơm thì sẽ lắp theo hệ thống lỗ (vì kích thước vòng bi không thay đổi được), nên việc lắp chặt hay trung gian là do bạn lựa chọn dựa trên các tiêu chí ở dưới. Còn thân bơm với vòng ngoài vòng bi thì lắp theo hệ trục (xem vòng ngoài vòng bi là trục). Bạn cũng cần lưu ý việc lắp chặt hay trung gian có thể ảnh hưởng đến khe hở vòng bi khi làm việc nên cần cân nhắc cho phù hợp với điều kiện vận hành, loại vòng bi (cùng loại vòng bi, vòng bi C2, C3 có khe hở nhỏ hơn C4, C4 nhỏ hơn C5). Nếu bạn đang dùng C3, lắp trung gian mà chuyển sang lắp chặt có thể làm giảm tuổi thọ vòng bi vì khe hở giảm hoặc không đáp ứng yêu cầu làm việc. Sơ đồ miền dung sai Miền dung sai Miền dung sai được tạo ra bằng cách phối hợp giữa  1 sai

Bảo trì năng suất toàn diện (Total Productive Maintenance)

Toàn bộ file điện tử powerpoint này: TPM P-1.ppt 1382K TPM P-2.ppt 336K TPM P-3.ppt 2697K Link download http://www.mediafire.com/?upl33otz5orx0e1

Cách kiểm tra và đánh giá vết ăn khớp (tooth contact) của cặp bánh răng

Viết bài: Thanh Sơn, bản quyền thuộc về  www.baoduongcokhi.com Hộp số với cặp bánh răng nghiêng Tooth contact là một trong những yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động hiệu quả và độ bền của bánh răng Mục đích Các bánh răng phải có tải trọng phân bố đều trên bề mặt răng khi làm việc ở điều kiện danh định.  Nếu tải trọng phân bố không đều, áp lực tiếp xúc và ứng suất uốn tăng cục bộ , làm tăng nguy cơ hư hỏng.  Gear Run Out của bánh răng là gì? cách kiểm tra Bánh răng và hộp số, phần 3: Phân tích dầu tìm nguyên nhân hư hỏng bánh răng. Bánh răng và Hộp số, phần 2: Các loại hộp số, bôi trơn, hư hỏng thường gặp Bánh răng và hộp số, phần 1: Các loại bánh răng (types of gears) Để đạt được sự phân bố tải đều, bánh răng cần có độ chính xác trong thiết kế, sản xuất, lắp ráp và lắp đặt các bộ phận của hộp số. Các yếu tố này được kiểm tra, test thử nghiệm và kiểm tra tại xưởng của nhà sản xuất thiết bị. Lắp đặt đúng cách tại hiện trường là bước cuối cùng để đảm bảo khả năng ti

Giới thiệu về Tua bin khí (Gas Turbine)

Turbine khí, còn được gọi là tuốc bin khí  (Gas Turbine) , là một loại động cơ nhiệt được sử dụng để chuyển đổi nhiệt năng thành năng lượng cơ học thông qua quá trình đốt cháy khí và chuyển động quay turbine. Một máy phát điện Generator kéo bởi một tuốc bin khí. Đây là tổ hợp của máy nén khí + tuốc bin khí + máy phát điện. Không khí được hút vào và nén lên áp suất cao nhờ một máy nén. Nhiên liệu cùng với không khí này sẽ được đưa vào buồng đốt để đốt cháy. Khí cháy sau khi ra khỏi buồng đốt sẽ được đưa vào quay turbine. Vì thế nên mới gọi là turbine khí. Năng lượng cơ học của turbine một phần sẽ được đưa về quay máy nén, một phần khác đưa ra quay tải ngoài, như cách quạt, máy phát điện... Đa số các turbine khí có một trục, một đầu là máy nén, một đầu là turbine. Đầu phía turbine sẽ được nối với máy phát điện trực tiếp hoặc qua bộ giảm tốc. Riêng mẫu turbine khí dưới đây có 3 trục. Trục hạ áp gồm máy nén hạ áp và turbine hạ áp. Trục cao áp gồm máy nén cao áp và turbine cao áp. Trục th

Chọn vật liệu chế tạo bánh răng và xử lý nhiệt

Viết bài: Thanh Sơn, bản quyền thuộc về  www.baoduongcokhi.com Điều cần thiết là chọn vật liệu và xử lý nhiệt thích hợp phù hợp với ứng dụng dự kiến ​​của bánh răng. Vì các bánh răng được ứng dụng cho nhiều mục đích sử dụng khác nhau, chẳng hạn như máy móc công nghiệp, thiết bị điện/điện tử, đồ gia dụng và đồ chơi, và bao gồm nhiều loại vật liệu, nên chúng tôi muốn giới thiệu các vật liệu điển hình và phương pháp xử lý nhiệt của chúng. Hộp số 1. Các loại vật liệu chế tạo bánh răng a) S45C (Thép cacbon dùng cho kết cấu máy): S45C là một trong những loại thép được sử dụng phổ biến nhất, chứa lượng carbon vừa phải ( 0,45% ). S45C dễ kiếm được và được sử dụng trong sản xuất bánh răng trụ thẳng, bánh răng xoắn, thanh răng, bánh răng côn và bánh răng trục vít bánh vít . Xử lý nhiệt và độ cứng đạt được: nhiệt luyện độ cứng Không < 194HB Nhiệt luyện bằng cách nung nóng, làm nguội nhanh (dầu hoặc nước) và ram thép, còn gọi là quá trìnhT

Sơ đồ tuabin khí chu trình hỗn hợp (combined cycle)

Viết bài KS Nguyễn Thanh Sơn, bản quyền thuộc về  www.baoduongcokhi.com CCGT được gọi là chu trình kết hợp trong nhà máy điện, có sự tồn tại đồng thời của hai chu trình nhiệt trong một hệ thống, trong đó một lưu chất làm việc là hơi nước và một lưu chất làm việc khác là một sản phẩm khí đốt. Giải thích rõ hơn: Turbine khí chu trình hỗn hợp (Combined Cycle Gas Turbine - CCGT) là một hệ thống phát điện sử dụng cùng một nguồn nhiên liệu để vận hành hai loại máy phát điện khác nhau: một máy phát điện dẫn động bởi tuabin khí (gas turbine) và một máy phát điện dẫn động bởi tuabin hơi nước (steam turbine). Hệ thống CCGT được sử dụng rộng rãi trong các nhà máy điện, do có thể giảm thiểu lượng khí thải và tăng tính hiệu quả trong việc sử dụng năng lượng. Nhà máy điện CCGT Trong hệ thống CCGT, nguồn nhiên liệu (thường là khí tự nhiên natural gas hoặc dầu) được đốt trong máy tuabin khí dẫn động cho máy phát điện generator để sản xuất điện. Hơi nước được tạo ra từ lò hơi thu hồi nhiệt (Heat Recove

Một số thiết bị chưng cất

Ngày nay cùng với sự phát triển vượt bậc của nền công nghiệp thế giới và nước nhà, các ngành công nghiệp cần rất nhiều hoá chất có độ tinh khiết cao. Chưng cất  ( distillation ) là quá trình dùng nhiệt để tách một hỗn hợp lỏng ra thành các cấu tử riêng biệt dựa vào độ bay hơi khác nhau của các cấu tử trong hỗn hợp ở cùng một nhiệt đo. Chưng cất = Gia nhiệt + Ngưng tụ Ta có thể phân biệt chưng cất ra thành quy trình một lần như trong phòng thí nghiệm để tách một hóa chất tinh khiết ra khỏi một hỗn hợp, và chưng cất liên tục, như trong các tháp chưng cất trong công nghiệp.  Xem kênh Youtube của Bảo Dưỡng Cơ Khí!  Hãy đăng ký kênh để nhận thông báo video mới nhất về Thiết bị chưng cất  Trong nhiều trường hợp có một tỷ lệ nhất định của hỗn hợp hai chất lỏng mà không thể tiếp tục tách bằng phương pháp chưng cất được nữa. Các hỗn hợp này được gọi là hỗn hợp đẳng phí. Nếu muốn tăng nồng độ của cồn phải dùng đến các phương pháp tinh cất đặc biệt khác. Có thể sử dụng các loại tháp chưng cất

Khe hở mặt răng (backlash) và khe hở chân/đỉnh răng (root/tip clearance)

Viết bài : Nguyễn Thanh Sơn, bản quyền thuộc về www.baoduongcokhi.com Các thông số cơ bản của bánh răng Về những thông số của bánh răng, có rất nhiều thông số để phục vụ cho quá trình gia công, thiết kế và lắp đặt máy. Tuy nhiên có một số thông số cơ bản bắt buộc người chế tạo cần phải nắm rõ, gồm: Đường kính Vòng đỉnh (Tip diameter): là đường tròn đi qua đỉnh răng, da = m (z+2) . Đường kính Vòng đáy (Root diameter): là vòng tròn đi qua đáy răng, df = m (z-2.5) . Đường kính Vòng chia (Reference diameter): là đường tròn tiếp xúc với một đường tròn tương ứng của bánh răng khác khi 2 bánh ăn khớp với nhau, d = m.Z   Số răng: Z=d/m Bước răng (Circular Pitch): là độ dài cung giữa 2 profin của 2 răng kề nhau đo trên vòng chia, P=m. π Modun: là thông số quan trọng nhất của bánh răng, m = P/π ; ha=m. Chiều cao răng (whole depth): là khoảng cách hướng tâm giữa vòng đỉnh và vòng chia; h=ha + hf=2.25m, trong đó ha=1 m, hf=1,25 Chiều dày răng (w

Tải miễn phí phần mềm triển khai hình gò

Phần mềm này sẽ giúp các bạn đưa ra bản vẽ triển khai gia công đầy đủ và chính xác, cho phép các bạn xuất ra bản vẽ Autocad để tiện hơn cho việc tính toán, in ấn , quản lý. [MF] —–  nhấn chọn để download Lưu ý: sau khi giải nén và cài đặt thì chép pns4.exe (có sẵn sau khi giải nén) đè lên file pns4.exe mới. Phiên bản này có đầy đủ kích thước với các kiểu ống và help. Nên chạy run as administrator trong win 7. Xin chào bạn!  Nếu bạn đang thích trang web của chúng tôi và thấy các bài viết của chúng tôi hữu ích, chúng tôi rất mong nhận được sự ủng hộ của bạn. Với sự giúp đỡ của bạn, chúng tôi có thể tiếp tục phát triển tài nguyên và cung cấp cho bạn nội dung có giá trị hơn nữa.  Cảm ơn bạn đã ủng hộ chúng tôi. Nguyễn Thanh Sơn

CÔNG NGHỆ GIA CÔNG VẬT LIỆU BẰNG DÒNG HẠT MÀI

Gia công dòng hạt mài (Abrasive Jet Machining - AJM)   1. Nguyên lý gia công :                                                   Hình 1: Nguyên lý gia công dòng hạt mài.  Gia công dòng hạt mài là phương pháp bóc vật liệu khi dòng khí khô mang hạt mài với vận tốc cao tác động lên chi tiết. Sự va đập của các phần tử hạt mài vào bề mặt chi tiết gia công tạo thành một lực tập trung đủ lớn, gây nên một vết nứt nhỏ, và dòng khí mang cả hạt mài và mẩu vật liệu nứt (mòn) đi ra xa. Phương pháp này rất thuận lợi để gia công các loại vật liệu giòn, dễ vỡ. Khí bao gồm nhiều loại như không khí, CO2, nitơ, heli,…  Khí sử dụng có áp suất từ 0,2 - 1,4 MPa, dòng khí có hạt mài có vận tốc lên đến 300m/s và được điều khiển bởi một van. Quá trình thường được thực hiện bởi một công nhân điều khiển vòi phun hướng dòng hạt mài chi tiết.  Xem kênh Youtube của Bảo Dưỡng Cơ Khí!  Hãy đăng ký kênh để nhận thông báo video mới nhất về Công nghệ gia công kim loại 2. Thiết bị và dụng cụ :  a. Máy:   Hình 2: Sơ đồ củ

Nghe Podcast Bảo Dưỡng Cơ Khí