Chuyển đến nội dung chính

Tính toán thay thế các tuabin cao áp/trung áp

Nhiều nhà sản xuất điện ở Mỹ đang cố kéo dài tuổi thọ hữu ích của các nhà máy điện hiện có vì như vậy có lợi hơn về kinh tế so với các phương án khác. Có nhiều lý do để trì hoãn, hủy bỏ hoặc thậm chí cân nhắc lại các dự án nguồn điện đã lên kế hoạch và trong tương lai, trong đó trước tiên phải kể đến các vấn đề về môi trường, cấp phép bị trì hoãn, sự phản đối của công luận và chi phí xây dựng. Nhìn chung các nhà máy điện ở Mỹ đang xuống cấp, nhiều nhà máy đã vận hành từ 30 năm nay, thậm chí còn lâu hơn.


Tuabin hơi 60 MW loại MTD 40BE


Để kéo dài tuổi thọ các nhà máy xuống cấp này, các nhà sản xuất điện đang cải tạo hoặc thay thế các hệ thống và trang thiết bị cũ hơn để kéo dài tuổi thọ, nâng cao hiệu suất, giảm phát thải, tiết kiệm tiền và cố gắng sản xuất điện từ những tài sản này. Vì các công nghệ mới được phát triển trong những năm gần đây nên các thiết bị thay thế có hiệu suất cao hơn so với thiết bị hiện có, ngay cả khi còn mới nguyên. Tuy nhiên, liệu công nghệ mới này có nâng cao được hiệu suất của cả nhà máy hay không? Và điều không kém phần quan trọng, nó sẽ ảnh hưởng ra sao đến các hệ thống và các bộ phận hợp thành cũ hơn của nhà máy?
Để xác định thiết bị mới sẽ hoạt động và tương tác ra sao với thiết bị cũ hiện có trước khi ký kết bất kỳ hợp đồng nào, các nhà sản xuất điện đang sử dụng các công nghệ phân tích nhiều khi vượt quá các công nghệ được các nhà chế tạo thiết bị chào mời. Những kiểm tra độc lập này đã tỏ ra rất có giá trị đối với các nhà sản xuất điện và đã phát hiện một số kết quả đáng kinh ngạc.
Lấy một ví dụ về việc thay thế thiết bị tại một nhà máy đã cũ. Năm 2007, một công ty điện lực lớn ở Mỹ đã tìm đến giải pháp thay thế các tuabin cao áp (CA) và trung áp (TA) cho một trong các tổ máy chạy than công suất 300 MW để nâng cao hiệu suất và tăng sản lượng điện của nhà máy “mà không phải đốt thêm một cân than”, như một quan chức của công ty điện lực đó đã từng phát biểu.
Các hồ sơ mời thầu đã được gửi đến nhiều hãng chế tạo tuabin khác nhau, trong đó có hai hãng trả lời và đưa ra các đề xuất. Để kiểm tra tính năng mà mỗi hãng đưa ra và để xác định ảnh hưởng của các tuabin mới đến phần còn lại của tổ máy, công ty điện lực đã sử dụng chương trình phần mềm cân bằng nhiệt PEPSE (đánh giá tính năng hiệu quả của hệ thống điện), bằng cách áp dụng một mô hình mô phỏng PEPSE đối với tuabin và các hệ thống lò hơi của tổ máy.
Dựa trên các kết quả của phân tích PEPSE đối với các tuabin được chào bán, các đề xuất của các hãng chế tạo tuabin quả thực đã đáp ứng các giá trị đảm bảo về tính năng của họ. Tuy nhiên, vì các tuabin mới có hiệu suất cao hơn so với các tuabin CA và TA có sẵn, nên chúng thu được nhiều năng lượng hơn từ hơi nước so với các tuabin CA và TA đang vận hành, vì vậy năng lượng còn lại dành cho tuabin HA ở phía sau lại ít hơn. Kết quả là tăng công suất ra của các tuabin CA và TA, nhưng lại giảm công suất ra của tuabin HA. Mặc dầu công suất tổng của cả tổ máy có cao hơn, nhưng lại thấp hơn so với dự kiến sau khi trừ đi phần giảm công suất ra của tuabin HA giờ đây bị thiếu hơi.
Người ta đã tiến hành thêm một số phân tích PEPSE. Trong đó có phân tích trường hợp phục hồi các tuabin CA và TA thay vì sử dụng các tuabin mới. Đúng như dự kiến, các tuabin phục hồi có hiệu suất không cao bằng và cũng không phát được thêm nhiều điện như các tuabin mới được đề xuất, nhưng chi phí so với các tuabin mới thì thấp hơn đáng kể. Sau cùng, đã phân tích việc tăng diện tích bề mặt lò hơi khác nhau cho các bộ phận quá nhiệt (sơ cấp và thứ cấp), gia nhiệt lại và bộ hâm khi sử dụng các tuabin mới.
Công ty điện lực đã tiến hành phân tích chi phí/lợi ích dựa trên các kết quả PEPSE. Ba phương án lựa chọn của họ đối với tuabin bao gồm: 1) Không làm gì cả, 2) Thay thế các tuabin CA và TA bằng các tuabin mới và 3) Phục hồi các tuabin CA và TA. Các lựa chọn khác nhau của họ về diện tích bề mặt lò hơi bao gồm việc tăng diện tích bề mặt quá nhiệt, gia nhiệt lại và/hoặc bộ hâm. Các kết quả phân tích về chi phí/lợi ích này đã khuyến khích phục hồi các tuabin ở lần sửa chữa lớn tiếp theo thay vì thay thế thiết bị mới. Hơn nữa, công ty điện lực sẽ không tăng diện tích bề mặt lò hơi.
Tổ máy
Tổ máy đang xét là một trong các tổ máy của nhà máy điện. Tổ máy này được thiết kế để sản xuất 310 MW điện ở điều kiện đầy tải, năng suất hơi mới là 2 x 106 lb/hr (2 x 48 kg/h), nhiệt độ hơi mới là 1.050 F (566oC), áp suất hơi mới là 2.400 psig (169 kg/cm2) và nhiệt độ gia nhiệt lại là 1.000 F (538oC). Tổ máy được đưa vào hoạt động lần đầu tiên vào đầu năm 1970.
Lò hơi tiếp tục hoạt động theo thiết kế ban đầu của Combustion Engineering. Lò hơi đốt than bột được mua từ nhiều nguồn, theo các hợp đồng có thời hạn và trên thị trường giao ngay.
Các tuabin CA, TA và HA hiện nay là do General Electric chế tạo. Tổ máy bố trí các tuabin kiểu chéo nhau, các tuabin CA và TA lưu trình đơn nối với máy phát điện có tần số quay 3.600 vòng/phút và một tuabin HA lưu trình kép nối với máy phát điện có tần số quay 1.800 vòng/phút. Có 7 bộ gia nhiệt nước cấp trong chu trình.
Vấn đề
Các tuabin CA và HA nguyên thủy trong nhà máy được chế tạo từ đầu những năm 1970 nên nhiệm vụ chính hiện nay là nâng cấp hoặc thay thế các tuabin này. Tính năng giảm sút và yêu cầu tăng cường bảo dưỡng là các yếu tố chính khiến người ta phải quan tâm nhiều hơn đến các tuabin này. Công nghệ tuabin mới đưa ra hiệu suất cao hơn, cộng với các vấn đề về môi trường và chi phí năng lượng ngày càng cao, cũng đã góp phần vào quyết định thăm dò các phương án lựa chọn đối với các tuabin. Đợt sửa chữa lớn dự kiến vào năm 2010, như vậy sẽ có đủ thời gian chuẩn bị lập kế hoạch dự án cũng như lắp đặt các tuabin mới.
Giải pháp
Đầu năm 2007, công ty điện lực đã mời nhiều hãng chế tạo tuabin gửi các đề xuất về yêu cầu thay thế các tuabin CA và TA. Hai nhà sản xuất tuabin cũng là các nhà sản xuất thiết bị nguyên thủy (OEM), đã trả lời kèm theo bảng giá và yêu cầu kỹ thuật về tính năng của các tuabin mới được đề xuất. Đối với cả hai nhà chế tạo thì yêu cầu kỹ thuật về tính năng quan trọng nhất là biểu đồ cân bằng nhiệt. Biểu đồ này thể hiện các tuabin CA và HA mới. Tuy nhiên, tính năng của các thành phần và hệ thống khác, kể cả các điều kiện biên của hệ thống vẫn được giữ nguyên như biểu đồ cân bằng nhiệt của hãng cung cấp tuabin nguyên thủy thời những năm 1970. Mặc dù biểu đồ cân bằng nhiệt có thể là cơ sở đảm bảo cho các nhà chế tạo tuabin, nhưng nó không phản ảnh tương xứng cách thức các tuabin mới sẽ hoạt động trong nhà máy hiện nay. Thường thì tính năng của các thành phần trong nhà máy sẽ không còn như trước, do bị xuống cấp hoặc do được thay thế qua tháng năm. Các điều kiện biên của chu kỳ tuabin, ví dụ như các thông số hơi cũng có thể khác đi do cùng nguyên nhân. Các điều kiện khác có thể cũng đã thay đổi do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Đánh giá
Tính năng thực tế của tuabin và nhà máy chỉ có thể biết được sau khi lắp đặt và thử nghiệm trong nhà máy. Tuy nhiên, có thể tính toán khá chính xác tính năng đó bằng cách tiến hành phân tích hệ thống, sử dụng một trong các chương trình cân bằng nhiệt có bán sẵn trên thị trường. Công ty điện lực đã lựa chọn PEPSE vì từ lâu họ đã gắn bó với chương trình phần mềm này.
PEPSE là một chương trình phần mềm cân bằng năng lượng trạng thái ổn định giúp tính toán tính năng của nhà máy. Quá trình phân tích nhà máy này được thực hiện bằng cách sử dụng một mô hình mô phỏng cấu hình thật của nhà máy. Mô hình được phát triển trên nền giao diện Windows, bằng cách kéo và thả trên màn hình các biểu tượng thành phần của nhà máy được lấy từ thư viện các thành phần. Thư viện này chứa tất cả các kiểu thành phần có trong nhà máy điện bất kỳ, trong đó có các hệ thống chu trình tuabin trong nhà máy điện hạt nhân, nhà máy điện đốt nhiên liệu hóa thạch, lò hơi đốt nhiên liệu hóa thạch, tuabin khí, nhà máy chu trình hỗn hợp, nhà máy sản xuất kết hợp điện và nhiệt và bất kỳ hệ thống hơi công nghệ hoặc hệ thống chất lỏng nào khác.
Các mô hình PEPSE của chu trình tuabin và lò hơi của tổ máy này đã có từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, chúng đã được sửa đổi phục vụ quá trình phân tích cho phù hợp với các dữ liệu hiện tại của nhà máy. Với PEPSE, các mô hình này được phát triển và điều chỉnh tách rời nhau, sau đó được kết hợp bằng cách sử dụng một trong các tính năng đặc biệt của PEPSE.
Mô hình thứ hai được phát triển để phục vụ nghiên cứu này - đó là một mô hình con riêng cho các tuabin CA và TA (xem hình 2). Mô hình con này cho phép phân tích đầu vào và điều chỉnh tính năng công bố của tuabin tại mỗi OEM, không hề ảnh hưởng đến các thành phần và hệ thống khác trong chu trình. Lưu ý rằng các thành phần và hệ thống khác này đã được giữ nguyên không thay đổi trong các cân bằng nhiệt chu trình tuabin mới do các OEM đề xuất, so với cân bằng nhiệt nguyên thủy. Sau khi vận hành và điều chỉnh các tuabin bằng cách sử dụng mô hình con này, các tham số điều chỉnh được chuyển tới mô hình tuabin chính. Kết quả là có được mô hình PEPSE của các lò hơi và các chu trình tuabin của tổ máy đã được điều chỉnh về các dữ liệu hiện tại của nhà máy, nhưng sử dụng các tuabin mới mà mỗi OEM đề xuất.
Kết quả
Các kết quả phân tích PEPSE cho thấy các tuabin thay thế của cả hai nhà sản xuất OEM đều hoạt động như đề xuất. Tuy nhiên, các tuabin mới thu được nhiều năng lượng từ hơi nước hơn so với các tuabin nguyên thủy, dẫn đến tuabin LP bị thiếu năng lượng. Điều này khiến đầu ra của tuabin LP bị giảm. Hiệu quả ròng của việc thay thế bằng tuabin của cả hai nhà sản xuất OEM so với vận hành các tuabin hiện nay trong nhà máy là công suất phát điện của các tuabin CA và TA lên khoảng 11 MW, nhưng công suất của tuabin LP lại giảm đi khoảng 5 MW. Do đó hiệu quả ròng là tăng được khoảng 6 MW. Các kết quả này cho thấy lượng tăng công suất ròng tổng của nhà máy là nhỏ, khiến cho dự án thay thế tuabin xem ra kém hấp dẫn hơn nhiều so với dự kiến ban đầu. Các kết quả được tóm tắt trong bảng 1, cột B và C tương ứng với tuabin của hai nhà sản xuất được so sánh với tuabin đang vận hành hiện nay ở cột A. Vì chưa muốn loại bỏ ngay dự án thay thế tuabin, công ty điện lực đã gợi ý một số thay đổi khác nhau về lò hơi và tiến hành khảo sát bằng cách sử dụng PEPSE. Phương án thiết thực nhất là tăng diện tích bề mặt của một số phân đoạn lò hơi, với mong muốn truyền nhiều năng lượng hơn từ lò hơi tới chu trình tuabin thông qua hơi mới và gia nhiệt lại, chuyển tổn thất năng lượng sang tuabin HA. Mô hình PEPSE lại được sử dụng, lần này là để khảo sát việc tăng diện tích bề mặt quá nhiệt lò hơi (cả sơ cấp và thứ cấp), gia nhiệt lại và của bộ hâm cùng với việc thay thế tuabin. Như vậy trong mô hình lò hơi PEPSE, phải bổ sung một số dãy ống cho các phân đoạn lò hơi. Đã khảo sát các trường hợp tăng từ 5 đến 25%. Trên thực tế, hầu như không thể tăng 25 % do hạn chế về không gian của lò hơi. Giới hạn thực tế 10% được coi là hiện thực hơn và đã được sử dụng làm cơ sở so sánh. Việc tăng số hàng ống của mỗi phân đoạn lò hơi được phân tích riêng rẽ; tức là không có hai phân đoạn nào được tăng đồng thời.
Việc tăng số hàng ống của lò hơi được phân tích theo hai phương án riêng biệt. Phương án thứ nhất là không khống chế nhiệt độ quá nhiệt hay gia nhiệt lại; tức là dòng nhiên liệu vẫn giữ nguyên không đổi như trong vận hành nhà máy hiện nay ở 100 % phụ tải. Ở phương án thứ hai, dòng nhiên liệu được điều chỉnh để duy trì khống chế nhiệt độ tại các giá trị thiết kế ban đầu: nhiệt độ hơi mới là 1.050 F (566oC) và nhiệt độ gia nhiệt là 1.000 F (538oC).
Các kết quả phân tích PEPSE về tăng bề mặt lò hơi cùng với việc sử dụng các tuabin mới được đề xuất cho thấy công suất nguồn điện chỉ tăng được rất ít, khoảng 1 MW hoặc ít hơn, so với trường hợp chỉ sử dụng các tuabin mới. Các kết quả đối với loại lò hơi không khống chế nhiệt độ được thể hiện ở bảng 2 (của nhà chế tạo OEM-1) và bảng 3 (của nhà chế tạo OEM-2). Các kết quả đối với loại lò hơi có khống chế nhiệt độ được nêu ở bảng 4 (chỉ với nhà chế tạo OEM-1).
Các kết quả nghiên cứu diện tích bề mặt lò hơi không khẳng định được việc thay thế tuabin là khả thi. Một phân tích nữa đã được thực hiện với mô hình PEPSE, lần này là phục hồi các tuabin CA và TA, thay vì sử dụng các tuabin mới. Phục hồi tuabin là phương án chi phí thấp hơn/lợi ích thấp hơn so với thay mới tuabin.
Các đặc tính về tính năng của tuabin dựa trên những ước tính tốt nhất của công ty điện lực về các tuabin sau khi phục hồi (hiệu suất 83,5% đối với tuabin CA, và 90% đối với tuabin TA) đã được sử dụng trong mô hình PEPSE. Nếu chỉ sử dụng các tuabin phục hồi (không thay đổi bề mặt lò hơi), thì các kết quả của mô hình PEPSE cho thấy công suất tổng của tuabin CA và TA tăng khoảng 4 MW và công suất của tuabin LP giảm khoảng 2 MW, kết quả là công suất ròng tăng khoảng 2 MW. Kết quả được trình bày tại cột B, bảng 5. Dữ liệu tương ứng về tuabin vận hành hiện nay được hiển thị tại cột A.
Cuối cùng, tiếp tục phân tích PEPSE với việc sử dụng các tuabin phục hồi này, có khống chế nhiệt độ về các giá trị thiết kế ban đầu: nhiệt độ hơi mới là 1.050F (566 oC) và nhiệt độ gia nhiệt là 1.000 F (538oC). Các kết quả được thể hiện tại cột C, bảng 5.
Đưa ra quyết định
Sau khi đưa vào tất cả các số liệu về tính năng và phân tích tất cả các kịch bản có thể thực hiện, vấn đề còn lại là qui ra tiền để xác định chi phí/lợi ích tốt nhất. Về chi phí đầu tư, thay thế các tuabin CA và TA tốn khoảng 12 triệu USD. Phục hồi các tuabin thay vì thay thế chúng tốn khoảng 1,5 triệu USD. Còn không làm gì thì chi phí là 0 USD.
Sau khi phân tích cẩn thận và chi tiết, công ty điện lực quyết định phục hồi các tuabin vào sửa chữa lớn tiếp theo. Không tăng diện tích bề mặt lò hơi.
Bảng 1. So sánh các kết quả của hãng cung cấp với tuabin đang vận hành


A
B
C
Tuabin đang vận hành
OEM-1
OEM-2
Công suất của tuabin CA (MW)
86,2
92,6
93,8
Công suất của tuabin TA (MW)
78,8
82,8
82,3
Công suất của tuabin HA (MW)
146,0
141,5
141
Công suất phát điện tổng* (MW)
306,5
312,4
312,6
Hệ số nhiệt của nhà máy (Btu/kWh)
9.104
8.935
8.930
*Sau khi trừ tổn thất trong máy phát điện.
  Bảng 2. Kết quả khi tăng bề mặt lò hơi, không khống chế nhiệt độ

 
A
B
C
D
E
Chỉ OEM -1
OEM-1RH+10%
OEM-1SSH+10%
OEM-1PSH+10%
OEM-1Econ+10%
Công suất của tuabin CA (MW)
92,6
91,8
92,8
93,3
93,0
Công suất của tuabin TA (MW)
82,8
83,0
82,7
82,9
83,0
Công suất của tuabin HA (MW)
141,5
141,9
141,4
141,7
141,9
Công suất phát điện tổng* (MW)
312,4
312,1
312,4
313,2
313,3
Hệ số nhiệt của nhà máy (Btu/kWh)
8.935
8.941
8..934
8.911
8.907
*Sau khi trừ tổn thất trong máy phát điện. RH = Bộ gia nhiệt lại, SSH = Bộ quá nhiệt thứ cấp, PSH = Bộ quá nhiệt sơ cấp, Econ = Bộ hâm.

 Bảng 3. Kết quả khi tăng bề mặt lò hơi, không khống chế nhiệt độ

 
A
B
C
D
E
Chỉ OEM -2
OEM -2RH+10%
OEM-2SSH+10%
OEM-2PSH+10%
OEM-2Econ+10%
Công suất của tuabin CA (MW)
93,8
93,0
94,0
94,5
94,2
Công suất của tuabin TA (MW)
82,3
82,6
82,3
82,5
82,6
Công suất của tuabin HA (MW)
141,0
141,5
141,0
141,3
141,5
Công suất phát điện tổng* (MW)
312,6
312,6
312,8
313,8
313,7
Hệ số nhiệt của nhà máy (Btu/kWh)
8.930
8.929
8.921
8.900
8.896
*Sau khi trừ tổn thất trong máy phát điện. RH = Bộ gia nhiệt lại, SSH = Bộ quá nhiệt thứ cấp, PSH = Bộ quá nhiệt sơ cấp, Econ = Bộ hâm.

 Bảng 4. Kết quả khi tăng bề mặt lò hơi, có khống chế nhiệt độ

 
A
B
C
D
E
Chỉ OEM-1
OEM-1RH+10%
OEM-1SSH+10%
OEM-1PSH+10%
OEM-1Econ+10%
Công suất của tuabin CA (MW)
93,4
93,5
93,8
93,5
93,8
Công suất của tuabin TA (MW)
84,1
84,3
84,1
84,1
84,1
Công suất của tuabin HA (MW)
143,6
143,9
143,6
143,7
143,7
Công suất phát điện tổng* (MW)
316,4
317,0
316,8
316,7
316,9
Hệ số nhiệt của nhà máy (Btu/kWh)
8.910
8.897
8.897
8.898
8.890
*Sau khi trừ tổn thất trong máy phát điện. RH = Bộ gia nhiệt lại, SSH = Bộ quá nhiệt thứ cấp, PSH = Bộ quá nhiệt sơ cấp, Econ = Bộ hâm.

 Bảng 5. So sánh các tuabin CA/TA phục hồi với các tuabin đang vận hành

 
A
B
C
Tuabin đang vận hành
Tuabin CA/TA phục hồi, không khống chế nhiệt độ
Tuabin CA/TA phục hồi, có khống chế nhiệt độ
Công suất của tuabin CA (MW)
82,6
89,3
90,3
Công suất của tuabin TA (MW)
78,8
79,8
81,1
Công suất của tuabin HA (MW)
146,0
144,1
146,3
Công suất phát điện tổng* (MW)
306,5
308,7
313,1
Hệ số nhiệt của nhà máy (Btu/kWh)
9.104
9.042
9.004
*Sau khi trừ tổn thất trong máy phát điện.




Theo: KHCN Điện số 5/2009




Related Posts by Categories



Nhận xét

Bài đăng xem nhiều

Dung sai và các chế độ lắp ghép bề mặt trụ trơn [pdf]

Viết bài: Thanh Sơn, bản quyền thuộc về www.baoduongcokhi.com Ví dụ bạn cần gia công 1 trục bơm ly tâm 1 cấp, khi lên bản vẽ gia công thì cần dung sai gia công, việc chọn dung sai gia công thì căn cứ vào kiểu lắp ghép như vị trí lắp vòng bi: đối với vòng trong vòng bi với trục bơm thì sẽ lắp theo hệ thống lỗ (vì kích thước vòng bi không thay đổi được), nên việc lắp chặt hay trung gian là do bạn lựa chọn dựa trên các tiêu chí ở dưới. Còn thân bơm với vòng ngoài vòng bi thì lắp theo hệ trục (xem vòng ngoài vòng bi là trục). Bạn cũng cần lưu ý việc lắp chặt hay trung gian có thể ảnh hưởng đến khe hở vòng bi khi làm việc nên cần cân nhắc cho phù hợp với điều kiện vận hành, loại vòng bi (cùng loại vòng bi, vòng bi C2, C3 có khe hở nhỏ hơn C4, C4 nhỏ hơn C5). Nếu bạn đang dùng C3, lắp trung gian mà chuyển sang lắp chặt có thể làm giảm tuổi thọ vòng bi vì khe hở giảm hoặc không đáp ứng yêu cầu làm việc. Sơ đồ miền dung sai Miền dung sai Miền dung sai được tạo ra bằng cách phối hợp giữa  1 sai

Bảo trì năng suất toàn diện (Total Productive Maintenance)

Toàn bộ file điện tử powerpoint này: TPM P-1.ppt 1382K TPM P-2.ppt 336K TPM P-3.ppt 2697K Link download http://www.mediafire.com/?upl33otz5orx0e1

Cách kiểm tra và đánh giá vết ăn khớp (tooth contact) của cặp bánh răng

Viết bài: Thanh Sơn, bản quyền thuộc về  www.baoduongcokhi.com Hộp số với cặp bánh răng nghiêng Tooth contact là một trong những yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động hiệu quả và độ bền của bánh răng Mục đích Các bánh răng phải có tải trọng phân bố đều trên bề mặt răng khi làm việc ở điều kiện danh định.  Nếu tải trọng phân bố không đều, áp lực tiếp xúc và ứng suất uốn tăng cục bộ , làm tăng nguy cơ hư hỏng.  Gear Run Out của bánh răng là gì? cách kiểm tra Bánh răng và hộp số, phần 3: Phân tích dầu tìm nguyên nhân hư hỏng bánh răng. Bánh răng và Hộp số, phần 2: Các loại hộp số, bôi trơn, hư hỏng thường gặp Bánh răng và hộp số, phần 1: Các loại bánh răng (types of gears) Để đạt được sự phân bố tải đều, bánh răng cần có độ chính xác trong thiết kế, sản xuất, lắp ráp và lắp đặt các bộ phận của hộp số. Các yếu tố này được kiểm tra, test thử nghiệm và kiểm tra tại xưởng của nhà sản xuất thiết bị. Lắp đặt đúng cách tại hiện trường là bước cuối cùng để đảm bảo khả năng ti

Tải miễn phí phần mềm triển khai hình gò

Phần mềm này sẽ giúp các bạn đưa ra bản vẽ triển khai gia công đầy đủ và chính xác, cho phép các bạn xuất ra bản vẽ Autocad để tiện hơn cho việc tính toán, in ấn , quản lý. [MF] —–  nhấn chọn để download Lưu ý: sau khi giải nén và cài đặt thì chép pns4.exe (có sẵn sau khi giải nén) đè lên file pns4.exe mới. Phiên bản này có đầy đủ kích thước với các kiểu ống và help. Nên chạy run as administrator trong win 7. Xin chào bạn!  Nếu bạn đang thích trang web của chúng tôi và thấy các bài viết của chúng tôi hữu ích, chúng tôi rất mong nhận được sự ủng hộ của bạn. Với sự giúp đỡ của bạn, chúng tôi có thể tiếp tục phát triển tài nguyên và cung cấp cho bạn nội dung có giá trị hơn nữa.  Cảm ơn bạn đã ủng hộ chúng tôi. Nguyễn Thanh Sơn

Khe hở mặt răng (backlash) và khe hở chân/đỉnh răng (root/tip clearance)

Viết bài : Nguyễn Thanh Sơn, bản quyền thuộc về www.baoduongcokhi.com Các thông số cơ bản của bánh răng Về những thông số của bánh răng, có rất nhiều thông số để phục vụ cho quá trình gia công, thiết kế và lắp đặt máy. Tuy nhiên có một số thông số cơ bản bắt buộc người chế tạo cần phải nắm rõ, gồm: Đường kính Vòng đỉnh (Tip diameter): là đường tròn đi qua đỉnh răng, da = m (z+2) . Đường kính Vòng đáy (Root diameter): là vòng tròn đi qua đáy răng, df = m (z-2.5) . Đường kính Vòng chia (Reference diameter): là đường tròn tiếp xúc với một đường tròn tương ứng của bánh răng khác khi 2 bánh ăn khớp với nhau, d = m.Z   Số răng: Z=d/m Bước răng (Circular Pitch): là độ dài cung giữa 2 profin của 2 răng kề nhau đo trên vòng chia, P=m. π Modun: là thông số quan trọng nhất của bánh răng, m = P/π ; ha=m. Chiều cao răng (whole depth): là khoảng cách hướng tâm giữa vòng đỉnh và vòng chia; h=ha + hf=2.25m, trong đó ha=1 m, hf=1,25 Chiều dày răng (w

Giới thiệu về Tua bin khí (Gas Turbine)

Turbine khí, còn được gọi là tuốc bin khí  (Gas Turbine) , là một loại động cơ nhiệt được sử dụng để chuyển đổi nhiệt năng thành năng lượng cơ học thông qua quá trình đốt cháy khí và chuyển động quay turbine. Một máy phát điện Generator kéo bởi một tuốc bin khí. Đây là tổ hợp của máy nén khí + tuốc bin khí + máy phát điện. Không khí được hút vào và nén lên áp suất cao nhờ một máy nén. Nhiên liệu cùng với không khí này sẽ được đưa vào buồng đốt để đốt cháy. Khí cháy sau khi ra khỏi buồng đốt sẽ được đưa vào quay turbine. Vì thế nên mới gọi là turbine khí. Năng lượng cơ học của turbine một phần sẽ được đưa về quay máy nén, một phần khác đưa ra quay tải ngoài, như cách quạt, máy phát điện... Đa số các turbine khí có một trục, một đầu là máy nén, một đầu là turbine. Đầu phía turbine sẽ được nối với máy phát điện trực tiếp hoặc qua bộ giảm tốc. Riêng mẫu turbine khí dưới đây có 3 trục. Trục hạ áp gồm máy nén hạ áp và turbine hạ áp. Trục cao áp gồm máy nén cao áp và turbine cao áp. Trục th

Các dạng và nguyên nhân hư hỏng thường gặp trong bộ truyền bánh răng trụ

Dạng hư hỏng Nguyên nhân Tróc bề mặt làm việc của răng - Vật liệu làm bánh răng bị mỏi vì làm việc lâu với tải trọng lớn. - Bề mặt làm việc của bánh răng bị quá tải cục bộ - Không đủ dầu bôi trơn hay bôi trơn không đủ nhớt Xước bề mặt làm việc của răng - Răng làm việc trong điều kiện ma sát khô. Răng mòn quá nhanh - Có bùn, bụi, hạt mài hoặc mạt sắt lọt vào giữa hai mặt răng ăn khớp Gãy răng - Răng bị quá tải hoặc bị vấp vào vật lạ Bộ truyền làm việc quá ồn kèm theo va đập - Khoảng cách trục xa quá dung sai qui định - Khe hở cạnh răng quá lớn Bộ truyền bị kẹt và quá nóng - Khoảng cách trục gần quá dung sai qui định - Khe hở cạnh răng quá nhỏ SCCK.TK

Cách tính toán phương pháp cân chỉnh Rim-Face

Ø  Đối với phương đứng: bạn cần tính toán theo hướng dẫn dưới đây Các thông số để tính toán cân chỉnh theo phương pháp RIM-FACE Hình: các thông số cần cho tính toán lượng di chuyển các chân máy bằng phương pháp Rim-Face Trong đó: A=Khoảng cách từ mặt phẳng đo tới chân sau của máy dịch chuyển B= Khoảng cách từ mặt phẳng đo tới chân trước của máy dịch chuyển D=Đường kính tạo ra khi đồng hồ so quét trên mặt phẳng đo (mặt khớp nối) b R =Số đo Rim của đồng hồ so tại vị trí đáy khi sét 0 ở trên đỉnh b F = Số đo Face của đồng hồ so tại vị trí đáy khi sét 0 ở trên đỉnh F=Lượng shim cần thiết ở hai chân trước R= Lượng shim cần thiết ở hai chân sau Để đo được cần chuẩn bị:2 đồng hồ so, thước mét Tính toán theo 2 công thức sau: Với 2 công thức này, bạn đã tính xong lượng shim cần them vào hay bớt ra ở hai chân trước và 2 chân sau. Quy ước: - Nếu tính ra kết quả dương (+) thì có nghĩa phải thêm một lượng shim F hay R ở các chân. - Nếu tính ra kết quả âm (-) thì có nghĩ

Phương pháp kiểm tra hạt từ (Magnetic Particle Testing)

Viết bài: Thanh Sơn, bản quyền thuộc về  www.baoduongcokhi.com Kiểm tra hạt từ (Magnetic Particle Testing MPT/MT hay Magnetic Particle Inspection - MPI) là một phương pháp kiểm tra không phá hủy nhằm phát hiện các khuyết tật trên bề mặt hoặc ngay bên dưới bề mặt kim loại. Đây là kỹ thuật nhanh và đáng tin cậy để phát hiện và định vị các vết nứt bề mặt. Nguyên lý MPT: Từ thông rò trên bề mặt không liên tục Nguyên lý Kiểm tra hạt từ (MT) dựa trên tính chất từ tính của vật liệu sắt từ. Khi một thành phần sắt từ bị từ hóa (được thực hiện bằng cách cho dòng điện chạy qua nó hoặc bằng cách đặt nó trong một từ trường mạnh), bất kỳ sự không liên tục hoặc khuyết tật nào có trong vật liệu sẽ gây ra rò rỉ từ thông (như vết nứt  sẽ tạo ra lực cản đáng kể đối với từ trường, tại những điểm không liên tục như vậy, từ trường thoát ra trên bề mặt của mẫu thử (từ thông rò rỉ). Xem thêm:  Kiểm tra thẩm thấu PT (Penetrant Testing) Kiểm tra siêu âm bên trong lòng ống ILI là gì? Rò rỉ từ thông làm cho từ tr

Chọn vật liệu chế tạo bánh răng và xử lý nhiệt

Viết bài: Thanh Sơn, bản quyền thuộc về  www.baoduongcokhi.com Điều cần thiết là chọn vật liệu và xử lý nhiệt thích hợp phù hợp với ứng dụng dự kiến ​​của bánh răng. Vì các bánh răng được ứng dụng cho nhiều mục đích sử dụng khác nhau, chẳng hạn như máy móc công nghiệp, thiết bị điện/điện tử, đồ gia dụng và đồ chơi, và bao gồm nhiều loại vật liệu, nên chúng tôi muốn giới thiệu các vật liệu điển hình và phương pháp xử lý nhiệt của chúng. Hộp số 1. Các loại vật liệu chế tạo bánh răng a) S45C (Thép cacbon dùng cho kết cấu máy): S45C là một trong những loại thép được sử dụng phổ biến nhất, chứa lượng carbon vừa phải ( 0,45% ). S45C dễ kiếm được và được sử dụng trong sản xuất bánh răng trụ thẳng, bánh răng xoắn, thanh răng, bánh răng côn và bánh răng trục vít bánh vít . Xử lý nhiệt và độ cứng đạt được: nhiệt luyện độ cứng Không < 194HB Nhiệt luyện bằng cách nung nóng, làm nguội nhanh (dầu hoặc nước) và ram thép, còn gọi là quá trìnhT

Nghe Podcast Bảo Dưỡng Cơ Khí