Chuyển đến nội dung chính

Hiện đại hóa hệ thống điều chỉnh tuabin hơi

Rất nhiều đơn vị hiện đang tiến hành hiện đại hóa hệ thống điều chỉnh các tuabin hơi (TH), trong đó có cả các TH của Nhà máy Cơ khí Leningrađ. Mục tiêu của việc hiện đại hóa là khắc phục các khiếm khuyết trong hoạt động của các bộ phận và nâng cao tính kinh tế của TH bằng việc sử dụng các van điều chỉnh mới với các van và mặt tựa van có prôfin (biên dạng) kinh tế hơn, các cột thép trong TH có trục cam, áp dụng các phương pháp làm kín bằng kim loại lỏng, v.v., kể cả việc đáp ứng các yêu cầu tăng cao đối với chất lượng điều chỉnh sơ cấp TH, thực hiện bằng cách áp dụng rộng rãi hơn các hệ thống điện - thủy lực, gia tăng tỉ lệ điện tử.

Tuabin hơi công suất 220 MW
Một số vấn đề nảy sinh khi lựa chọn phương hướng và khối lượng hiện đại hóa. Đối với những khía cạnh đó, cần cân nhắc đến số lượng lớn TH đang và sẽ được xử lý, và đây cũng là những vấn đề cấp thiết trong khâu thiết kế TH mới.
Phần điện tử của các hệ thống điều chỉnh có thể được thực hiện trên cơ sở phần tử khác, tùy thuộc vào yêu cầu kỹ thuật và khả năng vật chất của khách hàng, nhưng giải pháp sơ đồ tương đối giống nhau. Kinh nghiệm cần thiết trong việc thực thi các giải pháp đó, trong đó kể cả việc chọn các thuật toán, đã tích lũy được kể cả trong hệ thống điều chỉnh tốc độ quay và công suất, cũng như trong việc sử dụng các thiết bị bảo vệ chống vượt tốc. Cũng có nhiều kinh nghiệm áp dụng các bộ biến đổi điện - thủy lực (BĐĐTL) thuộc các thành tựu mới nhất, thí dụ các cơ cấu chấp hành kiểu động cơ tuyến tính Exlar.
Phần cơ của hệ thống điều chỉnh được hiện đại hóa không phải bao giờ cũng là cơ bản và kinh nghiệm tích lũy được trong hoạt động của các bộ phận không phải bao giờ cũng được áp dụng triệt để. Cụ thể như việc hiện đại hóa TH kiểu K-200-100 bằng việc lắp đặt bộ biến đổi điện - cơ cho bộ truyền động trực tiếp của servomotor kiểu ngăn kéo thuộc các van điều chỉnh của xilanh cao áp - xilanh trung áp (hoặc chỉ xilanh cao áp trong các TH kiểu PT-80). Độ nhậy của hệ thống điều chỉnh có thể đã được cải thiện ít nhiều, nhưng tất cả các vấn đề cũ vẫn tồn tại, đã vậy lại còn vấn đề kiểm soát độ di trục của bơm dầu chính mà hậu quả sự cố của nó là đáng kể.
Ngoài ra với việc thay thế trên, vẫn còn một phần tử đáng nghi ngờ trong hệ thống phân phối hơi, đó là các cam (vấu) của bộ phân phối hơi. Vì không thể tính toán, chế tạo các cam này với đủ độ chính xác nên khó duy trì chúng ở trạng thái không đổi, điều chỉnh, và quan trọng hơn hết, rất khó hiệu chỉnh tại chỗ theo kết quả thử nghiệm. Phản ứng của TH khi thay đổi tần số lưới điện được xác định không chỉ bởi độ không nhậy của hệ thống điều chỉnh, mà còn bởi đặc tuyến “công suất - hành trình servomotor”. Nếu trong TH K-300-240 mà chỉ thay thế bộ điều chỉnh tốc độ kiểu cơ khí sang điện tử nhưng vẫn giữ nguyên bộ biến đổi điện - thủy lực chung thì cho dù các đặc tính của bộ biến đổi điện - cơ khí có hoàn thiện đi chăng nữa, vẫn không thể đạt hiệu quả cần thiết cho việc tuyến tính hóa đặc tính tĩnh “tần số quay - công suất”. Vì vậy đòi hỏi phải đặt bộ biến đổi điện - cơ khí riêng rẽ cho từng servomotor. Và đó mới thực sự là giải pháp đúng đắn hơn cả, bởi vì các servomotor điện - thủy lực riêng biệt với các cam điện tử sẽ đơn giản hóa việc giải quyết những vấn đề này.
Nhưng ở đây có thể có hai phương hướng thiết kế các servomotor điện - thủy lực.
Phương án thứ nhất: Bộ biến đổi điện - cơ khí liên hệ về mặt cơ khí với ngăn kéo (van trượt) cắt của servomotor bị động. Phương án thứ hai: Bộ biến đổi điện - cơ khí là bộ phận hợp thành của bộ biến đổi điện - thủy lực - tổng hợp (BĐĐTL-TH), tác động lên ngăn kéo cắt của servomotor bằng thủy lực. Cả hai phương án có thể được thực hiện với các đặc tuyến động lực khác nhau của bộ biến đổi điện - cơ khí. Ứng lực hoán vị càng lớn của bộ biến đổi điện - cơ khí có thể chỉ trong từng trường hợp đơn giản hóa đáng kể kết cấu của nó. Đồng thời cả hai phương án đó đều mặc định việc ứng dụng bộ cảm biến vị trí của servomotor làm mạch liên hệ ngược (mạch phản hồi).
Ngày nay ở các TH 300 và 800 MW đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm khả quan về hiện đại hóa và trên 5 năm vận hành các servomotor điện - thủy lực với việc ứng dụng bộ biến đổi điện - cơ (kiểu các bộ truyền động tuyến tính) trực tiếp nối với servomotor kiểu ngăn kéo do các hãng Interautomatics và Compressor Controls Corporation thực hiện trên các hệ thống với bộ biến đổi điện - cơ khí. Nhìn chung cũng có nhiều kinh nghiệm tốt trong vận hành các hệ thống điện - thủy lực của Nhà máy Cơ khí Leningrađ với việc ứng dụng bộ BĐĐTL-TH (trên 25 hệ thống, hơn 90 bộ BĐĐTL-TH) trong cả việc hiện đại hóa các hệ thống cũng như trong việc ứng dụng trên các TH khác nhau thuộc thế hệ mới, nghĩa là cả hai phương án đến nay đã chứng tỏ khả năng hoạt động tốt. Vậy tiếp đến cần phải làm gì?
Tiếp theo vấn đề đó được nghiên cứu từ quan điểm về điều kiện hoạt động của các bộ phận trong hệ thống điều chỉnh TH, và kể cả sự phát triển khả dĩ của các kết cấu hệ thống điều chỉnh và bản thân các TH và khi cân nhắc đến các tình huống đó, có thể phương án 2 được ưa chuộng hơn. Việc nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở các hệ thống điều chỉnh mới được chế tạo trong những năm gần đây cho các TH của Nhà máy Cơ khí Leningrađ.
Việc nghiên cứu triển khai bộ biến đổi điện - thủy lực - tổng hợp (BĐĐTL-TH) không có mối liên hệ cơ khí của bộ biến đổi điện - cơ khí với ngăn kéo cắt của servomotor (ví dụ sử dụng bằng sáng chế số 2154201 của LB Nga, theo đó tín hiệu từ bộ biến đổi điện - cơ khí và áp suất dầu từ đường bảo vệ tuabin được biến đổi thành áp suất thay đổi điều khiển ngắn kéo của servomotor) khi có mạch liên hệ ngược điện tử theo vị trí của servomotor cho phép thực hiện servomotor điều chỉnh, servomotor này có thể được bố trí không chỉ thẳng đứng, mà cả nằm ngang, và nói chung với bất kỳ độ dốc nào.
Việc sử dụng servomotor đó cho van stop đã cho phép Nhà máy Cơ khí Leningrađ thực hiện đối với TH thế hệ mới (T-150, K-110, v.v.) các khối phân phối hơi với van stop nằm ngang và một hoặc hai van điều chỉnh đặt đứng. Điều đó đơn giản hóa đáng kể bản thân các khối phân phối hơi và việc xếp đặt tuabin. Servomotor của van điều chỉnh trong các khối đó trước đây được thực hiện với liên hệ ngược cơ khí kiểu cam cho ngăn kéo cắt vì vào thời đó chưa có kinh nghiệm hoạt động với các servomotor “cam” điện tử, chưa có các dữ liệu về độ tin cậy của các bộ cảm biến vị trí của các servomotor và không có kinh nghiệm vận hành dài lâu các van điều chỉnh chống rung kiểu mới.
Hiện nay, khi tất cả những vấn đề đó đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, hoàn toàn hợp lý để tiếp tục phát huy bước sau: sử dụng các servomotor tương tự, nhưng với liên hệ ngược điện tử cho các van điều chỉnh, các van này cũng có thể bố trí nằm ngang hoặc nghiêng một góc bất kỳ. Những khối đó (thí dụ từ một van điều chỉnh về van stop) sẽ cho phép giảm đáng kể tổn thất áp suất trong toàn bộ hệ thống phân phối hơi, đặt các van gần xilanh hơn, đơn giản hóa phương pháp sấy các đường ống hơi khi khởi động tuabin và thao tác các van trong quá trình vận hành. Khả năng sắp xếp các khối van đó sẽ cho phép hiện đại hóa triệt để các hệ thống phân phối hơi của các TH K-300-240, K-800-240, v.v., trong đó chiều dài của các ống giữa các van thuộc xilanh cao áp và xilanh là đáng kể (hằng số thời gian của thể tích hơi khoảng 0,2 - 0,3 s khi sử dụng các khối van và tới 0,6 s khi các van stop được đặt riêng rẽ).
Chúng tôi cho rằng khả năng giảm các thể tích hơi đó, đặc biệt đối với các tuabin có hằng số thời gian của roto 5 - 7 s, sẽ là cấp thiết ngay cả trong tương lai và giải pháp đó là có triển vọng trong thiết kế.
Xung quanh servomotor đôi khi tạo ra chế độ bất thường về nhiệt độ và độ ẩm, dẫn đến tình trạng thiết bị điện và đặc biệt thiết bị điện tử ngừng hoạt động. Đôi khi nhân viên vận hành không thể đến gần thân cao áp của tuabin hơi do xì hơi trục van stop, xì hơi ở bộ chèn hơi. Lưu lượng dầu trong các servomotor khá lớn và mặc dầu có thể vận hành tạm thời ở các chế độ bất thường đó, nhưng dầu nhanh chóng bị hỏng.
Để nâng cao độ tin cậy vận hành khi đặt bộ BĐĐC trực tiếp lên ngăn kéo của servomotor nhất thiết phải đưa vào sơ đồ điều chỉnh các tín hiệu phản hồi (liên hệ ngược) từ các bộ cảm biến vị trí các servomotor của các van điều chỉnh (đôi khi của chính ngăn kéo) trong khi đó các chỉ số của các bộ cảm biến trở nên tới hạn xét trên quan điểm về độ tin cậy của bộ điều chỉnh.
Những điều kiện hoạt động của các bộ cảm biến đó có thể không thuận lợi không chỉ vì các chế độ nhiệt độ mà còn vì cả sự phát sinh rung của các van hoặc độ rung tăng cao của chính tuabin khi đi qua điểm tới hạn hoặc khi phát sinh độ rung tần số thấp.
Đối với các tuabin công suất lớn có nhiều servomotor của các van điều chỉnh, điều đó dẫn tới phức tạp hóa đáng kể sơ đồ điều chỉnh, làm tăng giá thành phần thiết bị và có thể chiếm hết công suất tính toán của bộ xử lý trung tâm. Ngoài ra xét về các điều kiện không thuận lợi trong sự hoạt động của các bộ cảm biến, ngay cả việc lắp dự phòng (tăng độ dư thừa lên gấp đôi) cũng có thể không nâng cao được độ tin cậy như mong muốn. Đương nhiên điều đó có thể không phải là trở ngại không vượt qua được.
Mặt khác, kinh nghiệm hiệu chỉnh cho thấy trong sơ đồ với bộ BĐĐTL-TH và servomotor có phản hồi cơ khí lên ngăn kéo của nó, việc sử dụng bộ cảm biến vị trí có thể chỉ giới hạn trong các nhiệm vụ về thông tin và hiệu chỉnh, nghĩa là không đưa tín hiệu của nó vào mạch điều chỉnh hoặc có đưa vào nhưng với chức năng hiệu chỉnh hạn chế.
Để thực thi đặc tuyến mở van cần thiết một cách tương đối chính xác, có thể sử dụng sơ đồ bộ chỉ vị trí đã được nghiên cứu triển khai trong quá trình tối ưu hóa thu nhận các đặc tuyến cho trước của servomotor, bao gồm sự liên kết của hai hàm số tuyến tính từng đoạn nối tiếp nhau, một hàm số trong đó là đặc tuyến tính toán, tức là sự phụ thuộc cần thiết của hành trình van vào tín hiệu điều khiển hệ thống điều chỉnh (dòng điều khiển từ hệ thống điều chỉnh - hành trình của servomotor), còn hàm số thứ hai là đặc tuyến thực nghịch đảo cũng của van đó (hành trình của servomotor - dòng điều khiển được đưa tới bộ biến đội điện - cơ khí).
Kết quả là tín hiệu đã hiệu chỉnh được đưa tới bộ BĐĐTL-TH để thu được đặc tuyến cho trước của van, có tính đến các sai lệch hiện hữu trong các đặc tuyến thực tế của các cụm. Trong sơ đồ trên, bộ cảm biến vị trí chỉ được sử dụng để hiệu chỉnh hệ thống, và sau đó tín hiệu của nó có thể loại bỏ khỏi mạch điều chỉnh. Trong trường hợp cần thiết, bộ cảm biến vị trí có thể được để lại trong vận hành liên tục để hiệu chỉnh những sai số nhỏ (về nhiệt độ, v.v.).
Những độ lệch nhỏ có thể bù bằng thành phần tích phân của hệ điều chỉnh chính (tần số quay, công suất, áp suất). Sơ đồ này đã được Nhà máy Cơ khí Leningrađ thử nghiệm khi hiện đại hóa các TH K-200-130 tại các Nhà máy nhiệt điện Maritsavostok-3 và Mariiska và đã cho thấy kết quả tốt. Ưu việt chính của sơ đồ là loại bỏ tất cả các bộ cảm biến vị trí của các servomotor không dẫn tới sự cần thiết của việc ngừng tổ máy, điều đó là ưu việt quan trọng nhất xét về quan điểm độ tin cậy của sơ đồ với bộ BĐĐTL-TH.
Một ưu việt nữa (đôi khi khá quan trọng) của sơ đồ đối với bộ BĐĐTL-TH là khả năng điều khiển hai (hoặc một số) servomotor chỉ nhờ một bộ BĐĐTL. Khả năng đó xuất hiện khi áp dụng việc phân phối hơi của các miệng phun trong trường hợp khi điểm bắt đầu mở một trong các van điều chỉnh nằm sau điểm mở hoàn toàn van điều chỉnh khác. Sơ đồ chỉ vị trí của các van trong phương pháp điều khiển đó phức tạp hơn đôi chút, nhưng vẫn duy trì được tất cả những ưu việt kể trên. Đối với một số TH, thí dụ K-300-240 của LMZ với 7 van điều chỉnh cao áp, việc áp dụng giải pháp trên có thể tiết kiệm được đáng kể.

Tuabin hơi K-800-240
Khi sử dụng bộ truyền động Exlar làm bộ biến đổi điện - cơ cho sơ đồ điều chỉnh tuabin hơi, cần phải duy trì độ tin cậy vận hành cho việc đóng van khi mất nguồn cung cấp hoặc các tình huống tương tự của toàn bộ mạch điều chỉnh tốc độ như một tầng bảo vệ đầu tiên chống lồng tốc tuabin. Các bộ truyền động loại GS được trang bị các động cơ lực, với bộ khuếch đại không có chổi than và vận hành giống như các servomotor không có chổi than. Bộ khuếch đại servo được sử dụng để quay motor, đồng thời đảm bảo khống chế tốc độ và mômen xoắn cũng như để khống chế số vòng quay và thời gian quay. Chuyển động quay biến thành chuyển động tuyến tính nhờ cơ cấu trục vít bánh răng hành tinh được lồng ghép vào bộ truyền động tuyến tính GS.
Phần tử “tinh vi” nhất trong bộ BĐĐTL-TH đòi hỏi lắp ráp kỹ lưỡng và hiệu chỉnh tốt là bộ biến đổi điện – cơ khí. Nếu sử dụng bộ truyền động tuyến tính (kiểu Exlar) để làm bộ biến đổi điện – cơ khí cho bộ BĐĐTL-TH, có thể không cần sử dụng hệ thống theo dõi trong bộ BĐĐTL-TH và sự di chuyển ngăn kéo của bộ BĐĐTL bằng chính bộ truyền động công suất nhỏ kiểu GS20-0302 với ứng lực tuyến tính cực đại khoảng 90 kg và hành trình toàn phần 5 mm. Khối lượng của bộ truyền động này khoảng 2,5 kg, cao gần 200 mm.
Nếu lợi dụng khả năng rộng lớn của các bộ điều chỉnh vi xử lý điện tử thì về nguyên tắc, servomotor của các van điều chỉnh và van stop thuộc bất cứ kiểu gì đều có thể thực hiện với phản hồi cơ khí tuyến tính (bằng cách đó đơn giản hóa và chuẩn hóa được kết cấu), còn đặc tuyến mở cần thiết thực hiện bằng các hàm số tuyến tính từng đoạn nêu trên. Triển vọng giải pháp sơ đồ đó sẽ cho phép hiệu chỉnh đặc tuyến mở các van điều chỉnh trong chế độ tự động, điều đó giảm thiểu đáng kể chi phí nhân lực cho việc bảo dưỡng hệ thống điều chỉnh.
Kết luận
1. Sử dụng van điều chỉnh với servomotor điện - thủy lực riêng lẻ cho phép đảm bảo chính xác hơn độ tuyến tính cho đặc tuyến tĩnh của hệ thống điều chỉnh tuabin hơi.
2. Sử dụng servomotor điện - thủy lực với bộ biến đổi điện - cơ, về cơ khí không liên hệ với ngăn kéo ngắt của servomotor điều khiển nó, cho phép tạo ra các khối phân phối hơi có mức tổn thất áp suất hơi thấp nhất và có nhiều điều kiện bố trí tốt nhất.
3. Sử dụng các bộ chỉ vị trí với việc ứng dụng tính liên tục của các hàm số tuyến tính từng đoạn đảm bảo sự hoạt động tin cậy và chất lượng cao của hệ thống điều chỉnh ngay cả khi các bộ cảm biến vị trí của các servomotor không hoạt động, các bộ cảm biến này có thể chỉ được sử dụng cho các mục tiêu phụ trợ. Đồng thời servomotor thủy lực có thể được thực hiện với phản hồi tuyến tính cho ngăn kéo ngắt của nó, điều đó làm đơn giản kết cấu của chính servomotor.


Theo: KHCN Điện số 5/200 




WWW.BAODUONGCOKHI.COM

Related Posts by Categories



Nhận xét

Bài đăng xem nhiều

Dung sai và các chế độ lắp ghép bề mặt trụ trơn [pdf]

Viết bài: Thanh Sơn, bản quyền thuộc về www.baoduongcokhi.com Ví dụ bạn cần gia công 1 trục bơm ly tâm 1 cấp, khi lên bản vẽ gia công thì cần dung sai gia công, việc chọn dung sai gia công thì căn cứ vào kiểu lắp ghép như vị trí lắp vòng bi: đối với vòng trong vòng bi với trục bơm thì sẽ lắp theo hệ thống lỗ (vì kích thước vòng bi không thay đổi được), nên việc lắp chặt hay trung gian là do bạn lựa chọn dựa trên các tiêu chí ở dưới. Còn thân bơm với vòng ngoài vòng bi thì lắp theo hệ trục (xem vòng ngoài vòng bi là trục). Bạn cũng cần lưu ý việc lắp chặt hay trung gian có thể ảnh hưởng đến khe hở vòng bi khi làm việc nên cần cân nhắc cho phù hợp với điều kiện vận hành, loại vòng bi (cùng loại vòng bi, vòng bi C2, C3 có khe hở nhỏ hơn C4, C4 nhỏ hơn C5). Nếu bạn đang dùng C3, lắp trung gian mà chuyển sang lắp chặt có thể làm giảm tuổi thọ vòng bi vì khe hở giảm hoặc không đáp ứng yêu cầu làm việc. Sơ đồ miền dung sai Miền dung sai Miền dung sai được tạo ra bằng cách phối hợp giữa  1...

Tải miễn phí phần mềm triển khai hình gò

Phần mềm này sẽ giúp các bạn đưa ra bản vẽ triển khai gia công đầy đủ và chính xác, cho phép các bạn xuất ra bản vẽ Autocad để tiện hơn cho việc tính toán, in ấn , quản lý. [MF] —–  nhấn chọn để download Lưu ý: sau khi giải nén và cài đặt thì chép pns4.exe (có sẵn sau khi giải nén) đè lên file pns4.exe mới. Phiên bản này có đầy đủ kích thước với các kiểu ống và help. Nên chạy run as administrator trong win 7. Xin chào bạn!  Nếu bạn đang thích trang web của chúng tôi và thấy các bài viết của chúng tôi hữu ích, chúng tôi rất mong nhận được sự ủng hộ của bạn. Với sự giúp đỡ của bạn, chúng tôi có thể tiếp tục phát triển tài nguyên và cung cấp cho bạn nội dung có giá trị hơn nữa.  Cảm ơn bạn đã ủng hộ chúng tôi. Nguyễn Thanh Sơn

Phương pháp kiểm tra hạt từ (Magnetic Particle Testing)

Viết bài: Thanh Sơn, bản quyền thuộc về  www.baoduongcokhi.com Kiểm tra hạt từ (Magnetic Particle Testing MPT/MT hay Magnetic Particle Inspection - MPI) là một phương pháp kiểm tra không phá hủy nhằm phát hiện các khuyết tật trên bề mặt hoặc ngay bên dưới bề mặt kim loại. Đây là kỹ thuật nhanh và đáng tin cậy để phát hiện và định vị các vết nứt bề mặt. Nguyên lý MPT: Từ thông rò trên bề mặt không liên tục Nguyên lý Kiểm tra hạt từ (MT) dựa trên tính chất từ tính của vật liệu sắt từ. Khi một thành phần sắt từ bị từ hóa (được thực hiện bằng cách cho dòng điện chạy qua nó hoặc bằng cách đặt nó trong một từ trường mạnh), bất kỳ sự không liên tục hoặc khuyết tật nào có trong vật liệu sẽ gây ra rò rỉ từ thông (như vết nứt  sẽ tạo ra lực cản đáng kể đối với từ trường, tại những điểm không liên tục như vậy, từ trường thoát ra trên bề mặt của mẫu thử (từ thông rò rỉ). Xem thêm:  Kiểm tra thẩm thấu PT (Penetrant Testing) Kiểm tra siêu âm bên trong lòng ống ILI là gì? Rò rỉ từ thông...

Cách kiểm tra và đánh giá vết ăn khớp (tooth contact) của cặp bánh răng

Viết bài: Thanh Sơn, bản quyền thuộc về  www.baoduongcokhi.com Hộp số với cặp bánh răng nghiêng Tooth contact là một trong những yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động hiệu quả và độ bền của bánh răng Mục đích Các bánh răng phải có tải trọng phân bố đều trên bề mặt răng khi làm việc ở điều kiện danh định.  Nếu tải trọng phân bố không đều, áp lực tiếp xúc và ứng suất uốn tăng cục bộ , làm tăng nguy cơ hư hỏng.  Gear Run Out của bánh răng là gì? cách kiểm tra Bánh răng và hộp số, phần 3: Phân tích dầu tìm nguyên nhân hư hỏng bánh răng. Bánh răng và Hộp số, phần 2: Các loại hộp số, bôi trơn, hư hỏng thường gặp Bánh răng và hộp số, phần 1: Các loại bánh răng (types of gears) Để đạt được sự phân bố tải đều, bánh răng cần có độ chính xác trong thiết kế, sản xuất, lắp ráp và lắp đặt các bộ phận của hộp số. Các yếu tố này được kiểm tra, test thử nghiệm và kiểm tra tại xưởng của nhà sản xuất thiết bị. Lắp đặt đúng cách tại hiện trường là bước cuối cùng để ...

Tải giáo trình chuyên nghành cơ khí [pdf]

Danh mục sách chuyên nghành cơ khí do chúng tôi tìm kiếm sưu tầm trên internet, đường link google drive có sẵn (pdf).  Nếu có điều kiện các bạn nên mua sách để ủng hộ tác giả và NXB nhé! Link tải giáo trình vẫn đang tiếp tục được cập nhật hàng ngày...... Ngày cập nhật: 13/6/2023 -------------------------------------------------------------- Sổ tay thiết kế cơ khí - Tập 1 - PGS Hà Văn Vui, TS. Nguyễn Chỉ Sáng, TH.S. Phan Đăng Phong NXB Khoa học và Kỹ thuật (2006) Số trang: 734 ==>  Tải tại đây -------------------------------------------------------------- Sổ tay thiết kế cơ khí - Tập 2 - PGS Hà Văn Vui, TS. Nguyễn Chỉ Sáng NXB Khoa học và Kỹ thuật (2004) Số trang: 601 ==>  Tải tại đây -------------------------------------------------------------- Sổ tay thiết kế cơ khí - Tập 3 - PGS Hà Văn Vui, TS. Nguyễn Chỉ Sáng NXB Khoa học và Kỹ thuật (2006) Số trang: 653 ==>  Tải tại đây -------------------------------------------------------------- Sổ tay thiết kế cơ ...

Khe hở mặt răng (backlash) và khe hở chân/đỉnh răng (root/tip clearance)

Viết bài : Nguyễn Thanh Sơn, bản quyền thuộc về www.baoduongcokhi.com Các thông số cơ bản của bánh răng Về những thông số của bánh răng, có rất nhiều thông số để phục vụ cho quá trình gia công, thiết kế và lắp đặt máy. Tuy nhiên có một số thông số cơ bản bắt buộc người chế tạo cần phải nắm rõ, gồm: Đường kính Vòng đỉnh (Tip diameter): là đường tròn đi qua đỉnh răng, da = m (z+2) . Đường kính Vòng đáy (Root diameter): là vòng tròn đi qua đáy răng, df = m (z-2.5) . Đường kính Vòng chia (Reference diameter): là đường tròn tiếp xúc với một đường tròn tương ứng của bánh răng khác khi 2 bánh ăn khớp với nhau, d = m.Z   Số răng: Z=d/m Bước răng (Circular Pitch): là độ dài cung giữa 2 profin của 2 răng kề nhau đo trên vòng chia, P=m. π Modun: là thông số quan trọng nhất của bánh răng, m = P/π ; ha=m. Chiều cao răng (whole depth): là khoảng cách hướng tâm giữa vòng đỉnh và vòng chia; h=ha + hf=2.25m, trong đó ha=1 m, hf=1,25 Chiều dày răn...

Tại sao đường kính ống hút thường lớn hơn đường kính ống xả của bơm ly tâm?

Trong hệ thống bơm ly tâm (centrifugal pump system), việc thiết kế và lựa chọn kích thước đường ống hút và đường ống xả không phải là ngẫu nhiên mà dựa trên cơ sở tính toán thủy lực nhằm đảm bảo hiệu quả vận hành, độ tin cậy và tuổi thọ thiết bị. Một điểm dễ thấy là trong nhiều hệ thống, đường kính ống hút thường lớn hơn đường kính ống xả. Điều này xuất phát từ các yêu cầu kỹ thuật liên quan đến kiểm soát tổn thất áp suất, chống xâm thực (cavitation) và đảm bảo điều kiện thủy lực tối ưu cho bơm. Sau đây là phân tích chi tiết: 1. Hiểu rõ nguyên lý hoạt động của bơm ly tâm Bơm ly tâm hoạt động dựa trên nguyên lý chuyển đổi năng lượng cơ học từ bánh công tác (impeller) thành động năng và áp năng của dòng chất lỏng. Chất lỏng được hút vào bơm qua cửa hút (suction inlet), tại đây bánh công tác gia tốc dòng chảy, sau đó chất lỏng được đẩy ra ngoài qua cửa xả (discharge outlet) với áp suất và vận tốc cao hơn. Lưu ý: Áp suất tại cửa hút luôn thấp hơn áp suấ...

Phương pháp kết nối truyền động bằng đĩa ép chặt (Shrink disc)

Kết nối then Giả sử bạn muốn lắp 1 Đĩa răng lên 1 Trục, thông thường sẽ là 1 mối lắp gép dùng then, tuy nhiên việc kết nối bằng then sẽ tạo sự tập trung ứng suất tại rãnh then, sự mài mòn cơ học theo thời gian và sự lệch tâm trục. Phương pháp kết nối bằng đĩa ép chặt (Shrink Disc) tạo sự phân bố áp lực đồng đều nên sẽ loại bỏ các nhược điểm trên. Đĩa ép chặt này còn gọi là  thiết bị kết nối không dùng then (Keyless locking device) , đây là một phương pháp hiện đại để tạo sự kết nối cơ học.  Đĩa ép chặt  (shrink disc)  có hình  dạng của 1 mặt bích trục có ghép nối ma sát. Chức năng chính của đĩa ép chặt là kết nối an toàn giữa trục bằng ma sát. Ví dụ, truyền động với trục và truyền động trục lồng trục (hollow shaft). Đĩa ép tạo ra kết nối không có khe hở bằng cách ép moay-ơ vào trục. Kết nối này chủ yếu được sử dụng để truyền mô-men xoắn. Đĩa ép chỉ cung cấp các lực cần thiết và không tự truyền lực hoặc mô men giữa trục và moay-ơ. Đĩa ép không nằm trong đường...

Kỹ thuật hàn Temper Bead

Biên soạn Nguyễn Thanh Sơn , bản quyền thuộc baoduongcokhi.com Hàn temper bead là một kỹ thuật hàn đặc biệt, trong đó nhiệt lượng (heat input) từ các lớp hàn kế tiếp sẽ làm tôi (temper) các lớp hàn trước đó. Kết quả là cấu trúc hạt mịn (fine grain structure) và độ cứng thấp được hình thành trong vùng ảnh hưởng nhiệt (Heat-Affected Zone – HAZ). Đây là phương pháp rất hữu ích trong việc kiểm soát luyện kim vùng HAZ mà không cần xử lý nhiệt sau hàn (Post-Weld Heat Treatment – PWHT).  Kỹ thuật này thường được áp dụng trong các tình huống mà PWHT không thể thực hiện được vì lý do kỹ thuật hoặc kinh tế — chẳng hạn như khi thực hiện sửa chữa tại chỗ trong các nhà máy đang vận hành. Trong những trường hợp như vậy, hàn temper bead cho phép đạt được các đặc tính cơ học chấp nhận được cho mối hàn và kiểm soát kích thước HAZ ở mức tối thiểu. 1. Định nghĩa và cơ sở luyện kim Temper Bead Welding (TBW) là phương pháp hàn nhiều lớp (multi-pass welding) được bố trí theo trình tự cụ thể, trong đó...

Sơ đồ tuabin khí chu trình hỗn hợp (combined cycle)

Viết bài KS Nguyễn Thanh Sơn, bản quyền thuộc về  www.baoduongcokhi.com CCGT được gọi là chu trình kết hợp trong nhà máy điện, có sự tồn tại đồng thời của hai chu trình nhiệt trong một hệ thống, trong đó một lưu chất làm việc là hơi nước và một lưu chất làm việc khác là một sản phẩm khí đốt. Giải thích rõ hơn: Turbine khí chu trình hỗn hợp (Combined Cycle Gas Turbine - CCGT) là một hệ thống phát điện sử dụng cùng một nguồn nhiên liệu để vận hành hai loại máy phát điện khác nhau: một máy phát điện dẫn động bởi tuabin khí (gas turbine) và một máy phát điện dẫn động bởi tuabin hơi nước (steam turbine). Hệ thống CCGT được sử dụng rộng rãi trong các nhà máy điện, do có thể giảm thiểu lượng khí thải và tăng tính hiệu quả trong việc sử dụng năng lượng. Nhà máy điện CCGT Trong hệ thống CCGT, nguồn nhiên liệu (thường là khí tự nhiên natural gas hoặc dầu) được đốt trong máy tuabin khí dẫn động cho máy phát điện generator để sản xuất điện. Hơi nước được tạo ra từ lò hơi thu hồi nhiệt (Heat Re...